Xạ khuẩn là gì? Các công bố khoa học về Xạ khuẩn
Xạ khuẩn là một loại vi khuẩn có khả năng sinh tồn và phát triển trong môi trường có nhiều phức tạp chất xạ, chẳng hạn như đất, nước, không khí và các chất phản...
Xạ khuẩn là một loại vi khuẩn có khả năng sinh tồn và phát triển trong môi trường có nhiều phức tạp chất xạ, chẳng hạn như đất, nước, không khí và các chất phản ứng hạt nhân. Chúng có khả năng chịu được các loại phân hủy ion hóa và phản ứng hạt nhân và thậm chí có thể sử dụng chúng như nguồn năng lượng chính. Ngoài ra, xạ khuẩn cũng có thể được sử dụng trong các ứng dụng khác nhau như trong công nghệ sinh học, y học và xử lý môi trường.
Xạ khuẩn là những vi khuẩn có khả năng tồn tại trong môi trường có chứa chất xạ. Chúng có khả năng chịu đựng các tác động bức xạ từ phần tử phóng xạ và thậm chí sử dụng chúng như nguồn năng lượng.
Có hai loại xạ khuẩn chính: xạ khuẩn ion hóa và xạ khuẩn sử dụng chất xạ.
- Xạ khuẩn ion hóa: Đây là những vi khuẩn có khả năng sống sót trong môi trường có nhiều ion hóa. Chúng có khả năng chịu đựng tác động của tia gamma, tia X và các phân tử phóng xạ khác. Ví dụ về xạ khuẩn ion hóa là Deinococcus radiodurans, một loại vi khuẩn cho phép tiếp tục sinh trưởng và phân chia sau khi tiếp xúc với mức bức xạ lên đến 15.000 Grays, một liều phóng xạ rất cao.
- Xạ khuẩn sử dụng chất xạ: Đây là những vi khuẩn có khả năng sử dụng chất xạ làm nguồn năng lượng cho quá trình chuyển hóa. Loại vi khuẩn nổi tiếng nhất trong nhóm này là vi khuẩn thuộc chi Desulfovibrio. Chúng tiêu thụ các chất hữu cơ và sử dụng ion sulfate và chất xạ như sulfite, axit sunfuric và sunfua để tạo thành chất lượng năng lượng để duy trì sự sống.
Trên thực tế, xạ khuẩn có thể tồn tại ở khắp nơi có đủ chất xạ, bao gồm cả đất, nước, không khí và cả trong các môi trường tiếp xúc với công nghệ lò phản ứng hạt nhân. Chúng có khả năng sinh tồn và phát triển trong môi trường mà những loại vi khuẩn khác không thể sinh sống.
Ứng dụng của xạ khuẩn rất đa dạng, bao gồm trong lĩnh vực y học, xử lý nước, trong công nghiệp thực phẩm và các công nghệ sinh học như vi sinh vật kỹ thuật. Xạ khuẩn cũng có thể được sử dụng để xử lý chất thải hạt nhân và các chất thải phóng xạ khác.
Xạ khuẩn, còn được gọi là vi khuẩn phóng xạ, là nhóm vi khuẩn có khả năng sống sót và sinh trưởng trong môi trường có chứa chất xạ. Chất xạ là các phân tử hoặc nguyên tử có khả năng phóng xạ, tức là tỏa ra các tia bức xạ như tia gamma, tia X hoặc tia alpha.
Xạ khuẩn có khả năng chịu đựng tác động bức xạ và thậm chí sử dụng nó làm nguồn năng lượng. Chúng có sơ đồ chuyển hóa đặc biệt để tái tạo các phân tử bị hủy hoại bởi tia bức xạ, hoặc sử dụng chúng trong quá trình chuyển hóa sinh hóa.
Một trong những loại xạ khuẩn phổ biến nhất là vi khuẩn Deinococcus radiodurans. Vi khuẩn này có khả năng sinh trưởng và tái tạo DNA sau khi tiếp xúc với mức bức xạ cao (lên đến 15.000 Grays) mà gây hủy hoại cho hầu hết các loài sống khác. Điều này là do vi khuẩn Deinococcus radiodurans có khả năng sửa chữa DNA rất hiệu quả, tái tạo chất xương sống của tế bào và khắc phục hư hại gây ra bởi tác động bức xạ.
Xạ khuẩn cũng có thể được sử dụng trong các ứng dụng thực tế. Ví dụ, trong công nghệ môi trường, xạ khuẩn có thể được sử dụng để xử lý chất thải hạt nhân và các chất thải phóng xạ khác. Chúng có khả năng hấp thụ, phân hủy và loại bỏ các chất thải phóng xạ từ môi trường.
Ngoài ra, xạ khuẩn cũng có thể có ứng dụng trong y học, chẳng hạn như trong việc điều trị và xử lý tác động bức xạ cho bệnh nhân ung thư. Vi khuẩn xạ cũng có thể được sử dụng để chẩn đoán, với khả năng phản ứng với các chất phóng xạ và phát ra tín hiệu xạ ánh sáng hoặc xạ điện tử có thể được sử dụng để xác định vị trí và tình trạng của vi khuẩn.
Tuy xạ khuẩn có khả năng sống sót trong môi trường có chứa chất xạ, nhưng vẫn cần được thận trọng trong việc xử lý và sử dụng chúng, đặc biệt là để đảm bảo an toàn và ngăn chặn việc lan truyền chất xạ đến con người và môi trường.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "xạ khuẩn":
Các vi khuẩn xanh tích trữ dầu có tiềm năng cho phép sản xuất biodiesel quy mô lớn mà không cạnh tranh với đất canh tác hoặc các hệ sinh thái tự nhiên đa dạng. Năng suất lipid cao của những loài vi khuẩn xanh tăng trưởng nhanh tức thời là điều kiện tiên quyết chính cho sản xuất thương mại biodiesel từ dầu vi khuẩn. Tuy nhiên, trong điều kiện tăng trưởng tối ưu, một lượng lớn sinh khối vi khuẩn được sản xuất nhưng với hàm lượng lipid tương đối thấp, trong khi các loài có hàm lượng lipid cao thường phát triển chậm hơn. Những tiến bộ lớn trong lĩnh vực này có thể đạt được thông qua việc kích thích sinh tổng hợp lipid, chẳng hạn như thông qua các tác động căng thẳng môi trường. Lipid, dưới dạng triacylglycerides, thường có chức năng lưu trữ trong tế bào, cho phép vi khuẩn xanh tồn tại trong các điều kiện môi trường khắc nghiệt. Về cơ bản, sinh khối vi khuẩn và triacylglycerides cạnh tranh với nhau cho chất đồng hóa quang hợp, và việc tái lập các con đường sinh lý là cần thiết để kích thích sinh tổng hợp lipid. Đã có một loạt nghiên cứu được thực hiện để xác định và phát triển các kỹ thuật kích thích lipid hiệu quả trong vi khuẩn xanh như căng thẳng về chất dinh dưỡng (chẳng hạn như thiếu nitrogen và/hoặc phosphorus), căng thẳng thẩm thấu, bức xạ, pH, nhiệt độ, kim loại nặng và các hóa chất khác. Ngoài ra, một số chiến lược di truyền cho việc sản xuất và khả năng kích thích triacylglycerides được phát triển hiện nay. Trong bài tổng quan này, chúng tôi thảo luận về tiềm năng của các kỹ thuật kích thích lipid trong vi khuẩn xanh và cũng ứng dụng của chúng ở quy mô thương mại cho quá trình sản xuất biodiesel.
Một cụm gen tổng hợp carotenoid để sản xuất astaxanthin đã được phân lập từ vi khuẩn biển Agrobacterium aurantiacum. Cụm gen này chứa năm gen carotenogenic có cùng hướng, được chỉ định là crtW, crtZ, crtY, crtI và crtB. Các mã dừng của các gen crt riêng biệt ngoại trừ crtB giao thoa với các mã khởi đầu của các gen crt tiếp theo. Các biến dạng Escherichia coli mang các gen tổng hợp carotenoid của Erwinia uredovora cung cấp các chất nền phù hợp cho quá trình tổng hợp carotenoid. Chức năng của năm gen crt của A. aurantiacum được xác định thông qua các phân tích sắc ký và quang phổ của các sắc tố tích lũy trong một số biến dạng E. coli mang các tổ hợp khác nhau của các gen carotenogenic E. uredovora và A. aurantiacum. Do đó, con đường tổng hợp astaxanthin lần đầu tiên được đề xuất ở cấp độ các gen tổng hợp. Sản phẩm gen crtW và crtZ, có vai trò trung gian trong các phản ứng oxy hóa từ beta-carotene đến astaxanthin, cho thấy tính chuyên đặc vật chất nền thấp. Điều này cho phép sản xuất nhiều trung gian được cho là của astaxanthin, tức là adonixanthin, phoenicoxanthin (adonirubin), canthaxanthin, 3'-hydroxyechinenone và 3-hydroxyechinenone.
Sự xâm thực của rễ bởi vi khuẩn được giới thiệu là một bước quan trọng trong tương tác giữa vi khuẩn có lợi với cây chủ. Những nhà nghiên cứu cố gắng đo lường sự xâm thực của rễ bởi vi khuẩn phải đối mặt với một số vấn đề. Một khái niệm hoặc định nghĩa rõ ràng về sự xâm thực của rễ nên được nêu rõ trong mỗi tóm tắt nghiên cứu, vì đã có nhiều định nghĩa khác nhau được đề xuất. Chúng tôi coi những vi khuẩn xâm thực thực sự là những vi khuẩn xâm thực vào rễ trong điều kiện cạnh tranh, tức là đất tự nhiên tại hiện trường. Các phương pháp xử lý mẫu rễ khác nhau là cần thiết nếu một người chỉ đo lường sự xâm thực bên ngoài của rễ, xâm thực bên trong, hay cả hai. Với thực tế rằng hầu hết các chủng vi khuẩn có lợi hiện đang được nghiên cứu như những nhà xâm thực rễ đều là thành viên của các taxa thường có trong đất, một hệ thống đánh dấu là cần thiết để phân biệt chủng được giới thiệu với các thành viên trong cộng đồng rễ bản địa. Kháng sinh tự phát, các phương pháp miễn dịch và các chuỗi DNA ngoại lai là những hệ thống đánh dấu đã được sử dụng và mỗi hệ thống đều có một số lợi ích và hạn chế nhất định. Cần có thêm nghiên cứu trong việc phát triển và so sánh các hệ thống đánh dấu. Thiết kế thí nghiệm để đo lường sự xâm thực của rễ nên xem xét một số vấn đề thống kê. Cần quyết định cái gì tạo thành đơn vị mẫu cho mỗi lần lặp lại của một điều trị nhất định, ví dụ, toàn bộ hệ thống rễ hoặc các đoạn rễ. Cũng nên xem xét cách tốt nhất để biểu đạt dân số ước tính của các vi khuẩn xâm thực (ví dụ, cfu/g trọng lượng tươi hoặc khô của rễ, cfu/cm rễ, hoặc cfu/diện tích bề mặt của rễ). Phân tích thống kê bằng các bài kiểm tra phân tích phương sai chuẩn nên được sử dụng bất cứ khi nào có thể để phân tách các mức trung bình của các mức độ xâm thực; tuy nhiên, cần xác định rằng các giả định cơ bản của các bài kiểm tra này là chính xác cho mỗi thí nghiệm. Cuối cùng, trong việc định lượng dân số trên rễ, người ta hầu như chắc chắn sẽ gặp phải các lần lặp lại không có vi khuẩn, tức là số không. Có một số lựa chọn về cách tính toán các mức trung bình điều trị khi một hoặc nhiều lần lặp lại là số không, và các tác động của những lựa chọn này đã được thảo luận. Từ khóa: sinh quang học, đánh dấu di truyền, vi khuẩn thúc đẩy tăng trưởng thực vật, vi khuẩn rễ, rễ, sự xâm thực.
Các vết thương nhiễm trùng vẫn luôn là một trong những thách thức lớn trong y học. Trong thập kỷ qua, ngày càng rõ ràng rằng hóa trị liệu kháng khuẩn bị hạn chế bởi sự phát triển của kháng thuốc kháng sinh. May mắn thay, những chất khử trùng mới, hiệu quả cao với phổ kháng khuẩn rộng đã được phát hiện, do đó, điều trị tại chỗ dự kiến sẽ ngày càng trở nên quan trọng trong liệu pháp điều trị vết thương. Bài báo này xem xét tác nhân khử trùng polihexanide (polyhexamethylene biguanide, PHMB), một trong những chất hứa hẹn nhất hiện có hôm nay, từ góc độ lâm sàng, tập trung vào hiệu quả, độ an toàn và ứng dụng lâm sàng.
Chúng tôi báo cáo sự đặc trưng của BopE, một protein tiết loại III, được mã hóa gần với locus
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định nấm men và vi khuẩn sống trên bề mặt lá nho để kiểm soát Botrytis cinerea trên nho. Các nấm men và vi khuẩn đối kháng được phân lập từ hệ thực vật sống trên bề mặt liên quan đến quả nho và lá của giống nho ‘Thompson seedless’ từ các vườn nho ở Iran và được xác định thông qua phân tích trình tự các vùng gen bảo tồn. Tổng cộng có 130 mẫu nấm men và vi khuẩn từ bề mặt của cây nho đã được sàng lọc in vitro để xác định tác động đối kháng của chúng đối với B. cinerea và sử dụng để kiểm soát bệnh mốc xám sau thu hoạch. Trong số 130 mẫu, năm mẫu nấm men và bốn mẫu vi khuẩn cho thấy hoạt tính đối kháng lớn nhất in vitro đối với B. cinerea. Hai loài nấm men bao gồm Meyerozyma guilliermondii và Candida membranifaciens có khả năng đối kháng cao đối với tác nhân gây bệnh. Bên cạnh đó, bốn mẫu vi khuẩn thuộc dòng Bacillus sp. và Ralstonia sp. cũng cho thấy tác động kiểm soát sinh học đáng kể đối với B. cinerea. Các mẫu này có khả năng sản xuất các chất dễ bay hơi và không dễ bay hơi, có thể ức chế sự phát triển của tác nhân gây bệnh. Hoạt tính đối kháng của các nấm men và vi khuẩn được chọn đối với tác nhân gây bệnh đã được nghiên cứu trên các quả nho ‘Thompson seedless’ bị tổn thương. Trên các chùm nhỏ có quả nho nguyên vẹn, tất cả các mẫu đối kháng đã giảm đáng kể sự phân hủy trên quả nho, và tỷ lệ mốc xám trên quả được điều trị bởi các mẫu này thấp hơn 50%, ngoại trừ mẫu N1, mẫu này có khả năng ức chế sự xuất hiện của bệnh cao hơn. Những kết quả này gợi ý rằng nấm men và vi khuẩn đối kháng với tiềm năng kiểm soát B. cinerea trên nho có thể được tìm thấy trong hệ vi sinh vật của quả nho và lá nho.
Một nghiên cứu so sánh các hợp chất hòa tan trong n-hexane từ các phần trên mặt đất của bồ công anh (
Vi khuẩn trong không khí tồn tại rất phong phú và có thể thay đổi theo mục đích sử dụng đất. Sự mở rộng đô thị đang gia tăng nhanh chóng trên quy mô toàn cầu, làm thay đổi các nguồn nguyên liệu tự nhiên của đa dạng sinh học vi khuẩn trong không khí, khi đất và các loại cây bản địa bị thay thế bằng bê tông và các khu vườn được quản lý. Sự đô thị hóa làm đồng nhất hóa đa dạng sinh học của các sinh vật lớn hơn, nhưng những tác động của nó vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ trong lĩnh vực vi sinh vật học. Nghiên cứu này sử dụng các phương pháp phân loại và độ dốc để khảo sát các cộng đồng vi khuẩn trong không khí ở phía tây nam Michigan (Mỹ). Các cộng đồng vi khuẩn trong không khí mang dấu hiệu vi khuẩn đường ruột và đồng nhất như nhau giữa các địa điểm thành phố và nông thôn, mặc dù sự đồng nhất của cộng đồng vi khuẩn trong đất tại các địa điểm đô thị lớn hơn.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10